Biên phòng - Món mắm cá lóc dân dã trong bữa cơm thường ngày của người dân miệt vườn quê tôi giờ đã trở thành món ăn đặc sản khiến bất cứ ai thưởng thức một lần là nhớ, là thèm, là ghiền, chỉ với mùi thơm đặc trưng thôi đã khiến bụng dạ cồn cào.
Rời xa phố thị ồn ào, náo nhiệt, oi bức, ngột ngạt của những ngày hè oi ả, xuôi về miệt vườn sông nước Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang quê tôi, đắm mình trong cảnh thiên nhiên mướt màu xanh của những cánh đồng lúa, sự chằng chịt như mạng nhện của kênh rạch nơi đây, bạn mới thấy lòng mình thật sảng khoái, thư thái, gần gũi với thiên nhiên trong lành, thoáng đãng.
Trong khung cảnh thiên nhiên trù phú, hiền hòa và thơ mộng ở nơi đây, bạn còn được thưởng thức món ăn dân dã đậm đà tình quê, ăn một lần là chẳng thể nào quên được, đó là món mắm cá lóc đậm đà hương vị đồng quê, ngon cơm, lạ miệng. Làm mắm cá lóc phải trải qua nhiều công đoạn. Các nguyên liệu dùng vào việc chế biến cá là mật ong, rượu, cà phê, đường, gạo rang, không được dùng các loại hóa chất để chế biến cá… Muốn con mắm thơm ngon thì phải làm cá thật sạch, sau đó cho vào khạp hay thùng nhựa, sau 40 ngày đem ra rửa sạch lại để ráo nước rồi đưa thính vào từng con cá lóc.
Tiếp đó, lại đưa cá vào thùng nhựa hoặc khạp, lu, vại… đậy, cài lại, sau đó, chao đường, rắc thính. Để từ con cá trở thành con mắm thì mất ít nhất là 9 tháng, lâu hơn là 12 tháng mới đem ăn được. Cũng như các mắm cá sặc, cá rô, mắm cá lóc rất dễ chế biến các món ăn, như: trưng thịt ba rọi, hột vịt (hoặc trứng gà), tóp mỡ; lẩu mắm, bún mắm, hoặc đem kho với nước dừa và nhiều món ăn khác, tùy theo sở thích, khẩu vị, sự biến tấu của mỗi người khi vào mùa vụ nhà nông, không có thời gian đi bắt cá thì con mắm vừa làm thức ăn nhanh, lại vừa để được từ sáng đến chiều mà không bị hỏng (ôi thiu) nên rất tiện dùng.
Mắm cá lóc chưng nguyên con là sự kết hợp hoàn hảo giữa thịt cá dai mềm, vị đậm đà của nước mắm chưng, cùng mùi hương thơm lừng của hành lá và tiêu xay…, để rồi khi thưởng thức nó, bạn chỉ còn biết nức nở khen ngon không thể chê vào đâu được. Món ăn này khi được bày lên mâm cùng với một số món ăn khác như thịt gà, heo quay, vịt tiềm, bò xào, lẩu các loại…, đảm bảo rằng món mắm cá lóc chẳng mấy chốc đã hết veo, mà miệng thì vẫn còn thòm thèm, tiếc nuối, chỉ muốn xin thêm mà ngại.
Chỉ vì cái “ngon” không thể cưỡng lại được ấy mà ba lúc nào cũng dặn má tôi phải nấu nhiều cơm một chút để đáp ứng cho mấy sắp nhỏ đang tuổi ăn tuổi lớn, sợ thiếu, tội nghiệp chúng nó. Ba lo xa là vậy mà mỗi bữa nhà tôi chẳng lúc nào dư cơm, bởi mỗi đứa “đánh” từ 4 đến 5 chén cơm, đây cũng là món ăn dùng để ăn kèm với cơm mà mọi người hay đùa với nhau là “cơm quê”, bữa cơm đạm bạc của những tháng ngày khốn khó. Ngày xưa, khi cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả, mỗi khi chứng kiến những người nông dân ở địa phương khác đến đây cắt lúa, dặm lúa mướn mà bữa cơm trưa của họ chẳng có gì ăn ngoài muối vừng, ba tôi cầm lòng không đậu, san sẻ cho họ mắm cá lóc để ăn cho đưa cơm, chứ để họ ăn uống kham khổ như vậy, tội lắm.
Đôi khi, món mắm cá lóc cũng đã trở thành chiếc cầu nối se duyên cho tình yêu đôi lứa nam thanh nữ tú của miền quê nghèo khó. Biết bao chàng trai, cô gái vì yêu, vì mến món ăn “chân quê” ấy đã chọn nơi đây là bến đỗ bình an của cuộc đời mình, sinh cơ lập nghiệp, sinh con đẻ cái:
Đậm đà, dân dã món quê
Níu chân lữ khách chẳng về phố xa.
Đó cũng là món mồi “bén” ngon hết sẩy của ba đãi mấy người hàng xóm với vài ly rượu đế để đối ẩm trao đổi vụ mùa, con giống, vật nuôi, chuyện thế sự, chuyện trên trời dưới đất, nhất là vào những buổi chiều mưa hay sau mỗi buổi làm đồng vất vả trở về nhà. Anh bạn tôi người thành phố mỗi khi về nhà tôi chơi, cứ nằng nặc: “Con chỉ thèm món mắm cá lóc của ba thôi”, chứ nhất định không chịu cho má bắt gà, bắt vịt làm thịt. Kể vậy để bạn thấy rằng, món ăn dân dã ấy luôn sống trong tiềm thức của mỗi người con nơi đây, của mỗi du khách, chẳng thể nào quên dù họ có đi xa hay ở miền quê nào đó trên đất nước Việt thân yêu.
Trương Anh Sáng