Biên phòng - Quản lý tài nguyên, trong đó có quản lý rừng dựa vào cộng đồng đang đánh giá là mô hình bền vững, đã và đang có những đóng góp đáng ghi nhận trong nỗ lực chung nhằm bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước. Tuy nhiên, cho đến nay, mô hình quản lý tài nguyên này vẫn chưa phát huy hết được huy hiệu quả do thiếu hệ thống chính sách, khung pháp lý phù hợp để có thể cân bằng giữa lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng.
Cộng đồng được thừa nhận là một chủ thể
Trên thực tế, Việt Nam hiện có nhiều khu vực tài nguyên do cộng đồng tự quản lý hiệu quả gắn với các giá trị truyền thống, tri thức bản địa, như các khu rừng tín ngưỡng, rừng bảo vệ nguồn nước và các hình thức tương tự khác. Phương thức quản lý này đưa tới lợi ích kép: Không chỉ hỗ trợ, đảm bảo sự tham gia rộng rãi và nâng cao tiếng nói của cộng đồng trong công tác quản lý, bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học mà đồng thời góp phần phát huy và gìn giữ các giá trị truyền thống, tính gắn kết với rừng của các cộng đồng vùng cao.
Theo nghiên cứu của Trung tâm Con người và Thiên nhiên (Pan Nature), Việt Nam đã thừa nhận chủ thể cộng đồng truyền thống đối với đất đai. Trong đó, Luật Đất đai 2003, Luật Bảo vệ phát triển rừng năm 2004 lần đầu tiên thừa nhận cộng đồng dân cư thôn bản là một trong những chủ rừng (được giao rừng). Tiếp đó, Luật Đất đai năm 2013 quy định: có chính sách về đất ở, đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) phù hợp với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng và có chính sách tạo điều kiện cho đồng bào DTTS trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Luật Lâm nghiệp năm 2017 nêu nguyên tắc tôn trọng không gian sinh tồn, phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư; ưu tiên giao rừng cho đồng bào DTTS, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có phong tục, tập quán, văn hóa, tín ngưỡng, truyền thống gắn bó với rừng, có hương ước, quy ước phù hợp với quy định của pháp luật.
Pan Nature ước tính, đến năm 2018, diện tích rừng do cộng đồng dân cư được giao quản lý, sử dụng là hơn 1,1 triệu ha, chiếm 8% tổng diện tích rừng của cả nước. Chủ yếu cộng đồng được giao các diện tích là rừng sản xuất, thường là rừng nghèo kiệt cho dù là rừng tự nhiên. Tức là giao với mục đích để khai thác sử dụng rừng, hơn là bảo vệ rừng.
Tuy nhiên, việc xác định loại tài nguyên rừng giao cho cộng đồng quản lý gặp một số vướng mắc. Cụ thể, Luật Lâm nghiệp năm 2017 quy định rừng tín ngưỡng thuộc rừng đặc dụng và rừng bảo vệ nguồn nước thuộc rừng phòng hộ. Đây là 2 loại rừng giao cho cộng đồng gắn với truyền thống và phong tục.
Trên thực tế rất khó phân định rạch ròi giữa rừng tín ngưỡng và rừng bảo vệ nguồn nước. Trong khi diện tích của các loại rừng trên nhỏ lẻ, không đồng nhất và thiếu dữ liệu thống kê. Có sự chồng lấn và không rõ ràng về ranh giới và chủ thể quản lý của rừng truyền thống. Bên cạnh đó, còn tồn tại những vướng mắc về pháp lý cho việc giao đất, giao rừng cho cộng đồng. Và thực tế, cho đến nay, chưa có mô hình nào hòa hợp giữa thể chế quản lý hành chính và tổ chức quản lý rừng theo truyền thống.
Cần chính sách tiếp cận công bằng giữa các mô hình
Nhóm cộng đồng bảo vệ rừng ở xã Thạch Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình cho biết, từ lúc phát hiện loài Voọc quý hiếm, ở nhóm đã xây dựng các phương án bảo vệ rừng để giữ gìn sinh cảnh cho đàn Voọc và vận động người dân tham gia. Đại diện của nhóm cho biết, họ đã duy trì công việc này hơn 10 năm nay và đã chịu nhiều vất vả. Được tuyên truyền tốt, người dân trong xã hiện không săn bắt động vật hoang dã, đàn Voọc cùng các loài động vật, thực vật quý hiếm khác được bảo vệ rất tốt.
Điều mọi người băn khoăn là đã bỏ rất nhiều công sức để duy trì hoạt động nhưng vẫn không được hưởng chế độ, chính sách nào. Khu vực rừng đàn Voọc sinh trưởng đến giờ không được giao cho hộ gia đình hay chủ rừng nào quản lý. Từ thực tế của địa phương mình, nhóm cộng đồng ở xã Thạch Hóa đề xuất các nhà khoa học, quản lý tham mưu cho chính phủ có chế độ, chính sách phù hợp, rõ ràng đối với việc quản lý bảo vệ rừng đặc dụng có loài quý hiếm ở trong đó.
Bàn về việc nâng cao vai trò của cộng đồng trong quản lý rừng, Tiến sĩ Nguyễn Huy Dũng, nguyên Phó Viện trưởng Viện Điều tra, quy hoạch rừng cho rằng, việc quản lý rừng hiệu quả cao cần sự thống nhất của cộng đồng. “Yếu tố quan trọng là phát huy tính gắn kết của cộng đồng bởi hiệu quả quản lý rừng sẽ cao hơn nếu cộng đồng gắn kết. Ý chí của cộng đồng quyết định thành bại trong quản lý rừng” - ông Dũng nhấn mạnh.
Theo Phó Giáo sư Nguyễn Thế Chinh, Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường, để khôi phục, duy trì vốn rừng do cộng đồng quản lý, điều quan trọng nhất là phải xác định được lợi ích mang lại cho cộng đồng. “Đây là yếu tố cơ bản nhất của vấn đề cộng với “lệ làng”. Chính sách dù có hay mà khâu tổ chức thực hiện không tốt thì hiệu quả cũng không cao” - ông Chinh nhấn mạnh.
Ông cho biết thêm, có những cộng đồng sống hoàn toàn dựa vào rừng, khi xây dựng luật cần ưu tiên chính sách bảo đảm sinh kế cho người dân sống trong vùng đệm của rừng đặc dụng vừa đáp ứng được nhu cầu của người dân vừa đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường. Nói một cách khác là Nhà nước phải xây dựng được cơ chế hưởng lợi từ rừng cộng đồng cho người dân.
Để nâng cao vai trò và tiếng nói của cộng đồng trong quản lý tài nguyên, Pan Nature đề xuất Chính phủ cần xây dựng hệ thống chính sách hiện thực hóa hình thức sở hữu cộng đồng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Trong đó, đặc thù của từng nhóm dân tộc, đặc trưng văn hóa và lịch sử của mỗi vùng miền, thể chế cộng đồng và luật tục truyền thống cần được tính đến và được lồng ghép. Rừng tín ngưỡng được giao cho cộng đồng quản lý cần tổ chức quản lý theo thể chế truyền thống về tín ngưỡng và luật tục.
Bích Nguyên