Biên phòng - Tôi về huyện vùng cao Nam Giang (tỉnh Quảng Nam) giữa cơn mưa chiều vùng biên nặng hạt, trong ngày đầu tháng 10-2021. Những triền núi quấn quanh con suối bao bọc đã tạo cho Đắc Tà Vâng nằm lọt thỏm giữa mênh mông của đại ngàn Trường Sơn, ôm lấy con đường nhựa thông thoáng dẫn qua thôn Đắc Tà Vâng đi về các xã vùng biên Đắc Pre, Đắc Pring. Tôi bắt gặp một người đàn ông dân tộc Tà Riềng, năm nay khoảng hơn 70 tuổi, với làn da sạm nắng đang miệt mài bên lò rèn, cùng với những tiếng búa đập thình thịch, tiếng quay quạt lửa và cả tiếng cười đùa của những em bé Tà Riềng bao trùm cả không gian vắng lặng.
Thấy chúng tôi có vẻ thích thú với nghề rèn, ông Tơngôl Nhứn dừng việc rồi trò chuyện. Từ xa xưa, đồng bào Tà Riềng có tập tục canh tác đất để trồng lúa rẫy, lúa nước và nhiều loại cây trồng khác, đem lại nguồn thực phẩm dồi dào phục vụ nhu cầu ăn uống hằng ngày, phục vụ trong lễ hội, Tết và hình thành nên nghề rèn. Hằng năm, cứ trước mùa phát rẫy, chuẩn bị gieo trồng lúa, khoảng từ tháng 4 đến tháng 5, đây là thời gian nông nhàn để đàn ông dân tộc Tà Riềng đốt lửa lên rèn. Khi rèn thì quặng và sắt cho vào nung đỏ rực rồi đem nhúng vào nước để nhiệt độ giảm đột ngột, làm cho sắt non hơn để dễ đập thành từng dụng cụ. Sau đó, người thợ phải hình dung được dáng dấp của từng công cụ, rồi dùng đột và búa cắt thành hình công cụ cần rèn. Khi cắt xong từng công cụ, người thợ tiếp tục bỏ vào lửa nung, rồi lại đập cho đến khi nào thành sản phẩm. Mỗi lần đập búa, bao giờ cũng một tiếng nặng, một tiếng nhẹ để tạo nên sự chính xác nơi nện búa. Tất cả công đoạn đối với nghề rèn của đồng bào Tà Riềng chủ yếu dựa vào sức người là chính.
Cũng theo ông Nhứn, kỹ thuật rèn của người Tà Riềng không được ghi chép bài bản, mà nhớ trong đầu và chỉ có người đi trước truyền lại cho người đi sau. Ngoài các công đoạn đập, mài, dũa,... thì người thợ rèn dân tộc Tà Riềng lại có một cách tôi thép riêng biệt. Họ lấy vỏ của con cua đá hoặc mai của con rùa bắt ở suối giã nát, trộn chung ngâm với nước mưa để tôi mỗi khi chuẩn bị cho ra lò một dụng cụ nào đó. Cách làm như vậy sẽ khiến chất lượng con dao, đến cái rựa, cái rìu,... bóng như vỏ con cua, láng như cái mai của con rùa mà vật dụng còn thêm bền hơn.
Khi những vật dụng rèn xong, ông Nhứn tiếp tục sử dụng dũa để dũa những đoạn chưa đều, rồi tiếp tục lấy đá để mài, mài thật kỹ cho đến khi dụng cụ sắc hơn và bong ra một lớp trắng ở đầu lưỡi thì mới thôi. Công đoạn mài không hề đơn giản, đòi hỏi người thợ phải mài thật tỉ mỉ và khéo léo thì dụng cụ mới bén như ý muốn. Và cuối cùng, là công đoạn tra cán vào dụng cụ.
Khi tìm hiểu về nghề rèn, chúng tôi được biết, ông Tơngôl Nhứn sinh ra và lớn lên trong làng có nghề rèn luôn đỏ lửa. Từ nhỏ, ông Tơngôl Nhứn đã tiếp xúc với sắt, với cái búa, con dao, cái rựa... Khi 15 tuổi, ông Nhứn đã theo cha vào rừng tìm quặng, củi đốt than để về rèn. Ký ức về làng nghề hàng trăm tuổi của dân tộc mình trong ông Nhứn hiển hiện qua từng câu chuyện kể sinh động của cha ông và những lớp người lớn tuổi trong làng. Đến bây giờ, đã ngoài 70 tuổi, ông Tơngôl Nhứn không còn nhớ nổi mình đã rèn bao nhiêu dụng cụ như: cái cuốc (ma rehs), cái rựa (mưr), rìu (chuông), con dao (para), đến chĩa cá, tôm và nhiều dụng cụ sinh hoạt khác phục vụ bà con trong làng.
Ông Tơngôl Nhứn cho biết, từ cách nhóm lò, chọn than cho đến cách đặt bếp cũng phải có kỹ thuật. So với lò rèn của các dân tộc khác trên vùng Trường Sơn mà chúng tôi đã gặp, thì lò rèn của ông Nhứn được đắp bằng đất, mặt lò võng xuống để có thể cho than vào. Than để đốt lò là than của một loại gỗ ở trong rừng. Ðặc biệt, không phải than nào cũng dùng để đốt lò, mà ông Nhứn sử dụng loại than được đốt từ cây gỗ dẻ, loại than này cho ngọn lửa có nhiệt độ cao.
Với người thợ rèn như ông Nhứn, cần tính toán kỹ lưỡng mỗi khi bắt tay vào rèn dụng cụ nào đó. Phải thổi lửa sao cho sắt đỏ vừa phải, phù hợp. Khi rèn, phải theo một quy trình và cần có hai người, một người rèn và một người quay quạt để than trong lò cháy đều, cung cấp nhiệt cho quá trình đốt nóng các dụng cụ. Nghề rèn thủ công của người Tà Riềng, đòi hỏi người thợ phải có sức khỏe, sự khéo léo, cũng như sự kiên trì và sáng tạo mới có thể cho ra những vật dụng vừa có giá trị phục vụ lao động sản xuất, mà còn thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo riêng của dân tộc Tà Riềng.
Những dụng cụ từ đôi tay người thợ rèn Tơngôl Nhứn luôn có những điểm khác biệt, đó là độ sáng, kiểu dáng, rất sắc bén. Từ cái cuốc làm cỏ lúa rẫy, cái rựa, cái rìu đi rừng, đến con dao,... luôn được ông Nhứn sử dụng gốc cây trúc già làm cán. Chính bởi điều đó, mà đa phần bà con Tà Riềng trong thôn Đắc Tà Vâng, trong xã Đắc Tôi và một số người dân các xã lân cận như: Đắc Pre, Đắc Pring, La Dê thường xuyên đến đặt hàng do ông Nhứn làm ra. Bởi dụng cụ mà ông Nhứn làm thì phát rẫy rất bén mà lại lâu bị cùn.
Ông Nhứn nói: “Từ trước đến nay, đồng bào Tà Riềng luôn coi trọng nghề rèn truyền thống. Bởi nó giúp bà con Tà Riềng canh tác đất sản xuất để trồng lúa rẫy, lúa nước và nhiều loại cây trồng khác, đem lại nguồn thực phẩm dồi dào phục vụ nhu cầu ăn uống hằng ngày, phục vụ ngày lễ, Tết của đồng bào”.
Anh Zơ Râm Minh, Phó Chủ tịch UBND xã Đắc Tôi cho biết: “Hiện nay, nghề rèn thủ công của đồng bào Tà Riềng còn lại không nhiều. Trong xã Đắc Tôi, chỉ còn lò rèn của ông Tơngôl Nhứn hoạt động thường xuyên. Những năm qua, xã rất quan tâm đến việc bảo tồn và gìn giữ nghề rèn truyền thống của người Tà Riềng, để vừa giải quyết được nhu cầu về vật dụng và công cụ lao động của nhân dân trong mùa lên nương rẫy, vừa góp phần giữ gìn, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tà Riềng. Ông Tơngôl Nhứn là tấm gương sáng trong giữ gìn nghề rèn truyền thống của người Tà Riềng trên vùng biên Đắc Tôi này.
Nguyễn Văn Sơn