Đường dây nóng: 0983449277 - 0913303903 - 0912325336Thứ ba, 02/07/2024 05:22 GMT+7

Người nặng lòng với nghề gốm Quế An

Biên phòng - Một ngày giữa tháng 2/2023, chúng tôi đến xã Quế An, nơi có tên là làng “Lò nồi”. Khi được hỏi, chẳng ai trong xã Quế An, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam hiện nay còn nhớ nghề làm nồi đất ở đây có tự bao giờ. Và họ bảo, chỉ nghe các cụ cao niên trong làng truyền lại, cách đây gần 200 năm, người dân đã làm nồi đất đem đi khắp nơi trong vùng để bán, kiếm kế sinh nhai.

Bà Châu Thị Nhí, một trong những người thợ duy nhất còn giữ lửa cho làng gốm Quế An, huyện Quế Sơn. Ảnh: Văn Sơn

Trong cái nắng hanh của miền trung du Quế Sơn, tôi tìm về nhà bà Châu Thị Nhí, ở thôn Thắng Tây, xã Quế An và gặp bà đang hì hục với công việc của mình để đưa những sản phẩm vừa làm xong cách đây hơn 3 ngày vào cái lò gốm duy nhất còn lại ở làng “Lò nồi” này. Lau vội những giọt mồ hôi, bà Nhí quay lại bảo với chúng tôi: “Tôi cố làm sớm để có đủ đồ gốm cho vô lò nung, sợ trời xứ Quảng hay mưa dông. Một tháng mà không đốt lò là tôi thấy buồn lắm, chú ơi”.

Tôi dạo khoảng sân trước nhà, cũng chính là nơi hằng ngày bà Nhí dùng để phơi các sản phẩm gốm đã được thành hình. Trong mái che của nhà dưới, đã phai màu ngói, một chiếc bàn xoay dùng bằng sức người vẫn nằm đó. Chính từ đây, các sản phẩm như nồi, niêu, chum, vại, cái ấm nấu nước, lu đựng gạo, lu đựng nước uống, chảo đúc bánh xèo, bùng binh đựng tiền, đến ống nhổ trầu… nối tiếp nhau ra đời. Đống củi khô và vựa đất sét đang dùng bạt đậy ở góc sân, chừng ấy đất là nguyên liệu cho bà Nhí cùng gia đình mình hành nghề.

Bà Nhí hồi tưởng: “Hồi đó, tôi còn nhỏ, ngồi nhìn theo ông, bà mình làm thì tự mò mẫm tập nặn đất, rồi dần dần nhuần nhuyễn cho đến bây giờ. Nghề này thì không cầm tay chỉ việc được, nên khi tôi mới khoảng 10 tuổi, đã có ý “học lỏm” nghề từ người lớn trong nhà. Lớn lên, có chồng, tôi đem cái nghề về nhà chồng, cũng là gia đình làm gốm nên cứ rứa làm tiếp tới chừ thôi”.

Gian nan, vất vả đã bao lần, bà Nhí thao thức trước quyết định giữ lại nghề của làng mỗi khi đối mặt với khó khăn, túng thiếu và nhìn những người trong làng lần lượt giàu lên sau khi bỏ nghề gốm. Tôi ngồi trò chuyện cùng bà Nhí bên cái bàn xoay bằng gỗ đã cũ, đôi tay bà vẫn làm thoăn thoắt. Năm nay, bà Nhí 76 tuổi và là một trong những người thợ gốm đã qua hơn 50 năm theo đuổi nghề ở làng gốm Quế An này. Người phụ nữ đã quá thất tuần, nhưng đôi mắt vẫn lóe lên sự tự hào, kiêu hãnh về nghề gốm gia truyền đã neo vào lòng người nỗi nhớ một thuở cha ông hồ hởi nhào đất, nặn làm nồi.

Sản phẩm gốm Quế An được bà Nhí lưu giữ cái hồn riêng. Ảnh: Văn Sơn

Theo tìm hiểu của chúng tôi, để làm được cái nồi đất phải qua rất nhiều công đoạn. Người làm nồi phải cắt xắn, đâm rồi nhào trộn đất thật nhuyễn, nhặt bỏ các tạp chất. Công việc này thường được cánh đàn ông đảm nhận, nhưng các công đoạn tiếp theo như vê đất, nặn nồi, gọt, làm đẹp, phơi nắng, đem vào lò đốt không thể thiếu bàn tay khéo léo của người phụ nữ. Người thợ phải tỉ mẩn, cẩn thận, kiên trì, chịu khó. Tuy nhiên, công đoạn đốt nồi được xem là khó nhất, bởi nếu nhiệt độ quá cao thì hầu như các sản phẩm sẽ nứt hết, tất cả coi như mất hết. Nếu đốt không đủ nhiệt độ thì các sản phẩm sẽ sống.

Lò đốt nồi là lò trần lộ thiên, không lợp mái, gặp phải trời mưa, lò đang cháy dở thì chỉ có bỏ vì gặp mưa, các sản phẩm trở lại những khuôn màu đất sét. Thường thì sau khoảng 10 ngày, gia đình bà Nhí sẽ cho ra lò một mẻ nồi. Nghề này vất vả, thu nhập ít lắm. Hiện tại, niêu kho cá, niêu nấu cơm, ấm nấu nước, lò nấu, lu đựng gao, lu đựng nước, ống nhổ trầu… có giá từ 15.000 - 50.000 đồng/cái. Làm cật lực, một ngày công tính ra cũng chỉ từ 250.000 - 300.000 đồng. Lớp trẻ thôn Thắng Tây bây giờ đổ đi làm công nhân, xuất khẩu lao động, ở nhà chỉ còn ông bà già, trẻ nhỏ, không đủ sức theo nghề.

Cho dù thôn Thắng Tây vốn vang tiếng khắp vùng từ thương hiệu gốm “Lò nồi”, ấy vậy mà giờ đây chỉ còn rất ít người giữ nghề gốm Quế An. Làng gốm Quế An (thôn Thắng Tây) với sản phẩm đa dạng, nhưng số hộ tham gia làm nghề không còn nhiều như trước. Điều đặc biệt là những chiếc nồi đất mang đậm dấu ấn hồn quê xứ Quảng đều do bàn tay khéo léo của phụ nữ làng Thắng Trà tạo ra.

Mùa nắng thì thuận lợi, vì với khí hậu nóng hầm hập ở Quế Sơn thì phơi đất rất mau khô. Còn những ngày mưa dông hay lũ đầu nguồn kéo về, người dân vừa lo dọn nhà, vừa lo số đất nặn ra bị hư. Khi đó, cả gia đình bà Võ Thị Sương (năm nay 52 tuổi) phải đun lửa lên hong khô sản phẩm. Nhọc nhằn là vậy, chân lấm tay bùn là vậy, giọt mồ hôi người làm gốm thấm đẫm trong những chiếc chum, nồi đất vô tri, vô giác ấy. Có lẽ, cũng một phần vì thế mà giờ đây, đi khắp huyện Quế Sơn, muốn tìm ra nơi còn làm gốm mang thương hiệu Quế An sẽ vô cùng khó.

Trước kia, người dân trong làng phải gánh từng gánh nồi, niêu, tách trà... đi bán dạo nhiều nơi. Dù như vậy, nhưng nhìn chung, mặt hàng gốm của gia đình bà Nhí làm ra bao năm nay luôn được bạn hàng ở nhiều nơi trong tỉnh Quảng Nam ưa chuộng, nay đưa lên Tây Nguyên, mai mang đến tận Quảng Bình, Quảng Trị để bán. Tuy nhiên, giá mua sỉ còn thấp. Trung bình mỗi lò khi đốt xong hoàn chỉnh thì bán được khoảng từ 3 đến 3,5 triệu đồng cho 10 sản phẩm, với hơn 20 loại, trừ hết các khoản chi phí, tính ra còn khoảng 2 triệu đồng. Đặc biệt là tháng Chạp và gần Tết Nguyên đán, hàng bán chạy.

Bà Châu Thị Nhí truyền dạy làm gốm cho đứa con gái út của mình. Ảnh: Văn Sơn

Từ năm 1990 về sau, ở đây hầu như mọi nhà bỏ hết cái nghề này. Chỉ còn lác đác vài ba hộ vẫn ráng theo. Sản phẩm làm ra bao nhiêu thì đem bỏ sỉ cho các hộ buôn bán ở chợ Quế Sơn, một số ít phân phối ở các huyện lân cận như: Nông Sơn, Tam Kỳ, Hiệp Đức… Cả thôn Thắng Tây hiện nay chỉ còn vài gia đình, trong đó, có gia đình bà Võ Thị Sương, gia đình bà Châu Thị Nhí giữ nghề, các sản phẩm làm và bán ra thì ai cũng biết.

Chia tay, bà Nhí thổ lộ với tôi: “Chừng ấy thời gian đã làm nên giá trị sống cho làng gốm Quế An từ những mùi hương và màu của đất. Cả cuộc đời giữ lửa với nghề truyền thống của cha ông, nuôi mấy đứa con trưởng thành và vẫn giữ được tên tuổi của làng nghề là tôi mãn nguyện lắm rồi”. Trong lúc trò chuyện, đôi mắt của bà Nhí thỉnh thoảng ánh lên niềm vui và ẩn hiện những nỗi niềm mong ước sao cho làng gốm Quế An mãi còn lưu truyền cho đến tận mai sau.

Nguyễn Văn Sơn

Bình luận

ZALO