Biên phòng - 10 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung nhiều nguồn lực để đưa Luật Bình đẳng giới đi vào cuộc sống, từ đó, vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội đang ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn tồn tại không ít rào cản trong việc xóa bỏ định kiến giới, thực hiện bình đẳng giới đối với phụ nữ ở nước ta.
Định kiến giới đối với phụ nữ còn tồn tại
Việc thực hiện bình đẳng giới ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều bất cập do định kiến về giới đối với phụ nữ. Định kiến giới được thấy rõ nhất trong mỗi gia đình. Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp cùng Tổ chức ActionAid thực hiện năm 2017 cho thấy, phụ nữ dành trung bình 4,5 giờ mỗi ngày cho công việc chăm sóc không lương, tương đương 32 giờ trong một tuần, hay 207 ngày trong một năm. Con số này nhiều hơn nam giới 105 phút mỗi ngày, như vậy, thời gian làm việc nhà của nữ giới gấp 1,62 lần so với nam giới. Phụ nữ là người đảm trách các công việc nội trợ và chăm sóc gia đình mà vẫn chịu áp lực công việc bên ngoài xã hội như nam giới.
Bên cạnh đó, mỗi năm, có hàng nghìn vụ ly hôn mà nguyên nhân chủ yếu là do bạo lực gia đình, cũng là minh chứng rõ nhất về định kiến giới đối với phụ nữ ở nước ta. Theo kết quả nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ năm 2010, có tới 58% phụ nữ đã từng chịu ít nhất một trong ba hình thức bạo lực thể chất, tinh thần và tình dục từ người thân tại một số thời điểm trong cuộc sống của họ; 87% đã từng bị quấy rối tình dục ở nơi công cộng; 10% đã bị tấn công tình dục bởi chồng của họ. Tâm lý ưa thích con trai trong gia đình vẫn là hiện tượng phổ biến ở nhiều vùng miền và trong nhiều trường hợp gia đình xảy ra bạo lực khi phụ nữ không thể sinh một con trai.
Đồng thời, tình trạng bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái ngoài phạm vi gia đình đang là một vấn đề nhức nhối của xã hội; song đây là vấn đề nhạy cảm, nhiều chị em vì lý do khác nhau đã cam chịu, không tố cáo, nhất là khi người gây bạo lực là người thân; tình trạng quấy rối tình dục tại nơi làm việc hay xâm hại tình dục đối với trẻ em gái có chiều hướng gia tăng và tính chất ngày càng phức tạp hơn.
Theo số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, năm 2016 có 1.627 trẻ em bị bạo lực và xâm hại tình dục, trong đó, nạn nhân là trẻ em gái là 1.369 em (chiếm 84%). Những con số này tiếp tục tăng, 8 tháng đầu năm 2017, có 832 vụ bạo lực và xâm hại tình dục, trong đó, nạn nhân là bé gái là 765 em (chiếm 92%).
Nhiều vướng mắc trong thực hiện Luật Bình đẳng giới
Nguyên nhân sâu xa của bất bình đẳng giới ở nước ta, trước hết là do nhận thức của đại đa số người dân còn mang tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Trước tình trạng đó, đầu năm 2006, Luật Bình đẳng giới được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2007.
Luật Bình đẳng giới đã thể chế các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới nhằm bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của cả nam và nữ. Nhiều quy định của Luật Bình đẳng giới được triển khai đã mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong thời gian qua. Tuy nhiên, việc thực hiện Luật Bình đẳng giới vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc.
Cụ thể là các quy định trong Luật Bình đẳng giới còn chung chung, mang tính định hướng, khó triển khai trong thực tế, một số quy định hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành; chưa có sự thống nhất giữa Luật Bình đẳng giới và các luật chuyên ngành. Việc thực hiện quy định lồng ghép giới đạt kết quả chưa cao; việc thực hiện còn hình thức, chất lượng chưa cao, thiếu các thông tin số liệu để phân tách giới.
Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà cho biết, nguyên nhân dẫn đến những vướng mắc trên là do Luật Bình đẳng giới mang tính lồng ghép, cần có sự phối hợp cao và chặt chẽ giữa các bên liên quan, do đó, trong quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Đồng thời, tư tưởng định kiến giới còn tồn tại khá phổ biến trong nhân dân, kể cả trong một bộ phận cán bộ, công chức. Còn đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác bình đẳng giới thiếu về số lượng, chủ yếu là kiêm nhiệm, hạn chế về kiến thức giới, kỹ năng lồng ghép giới, thiếu các chuyên gia có kiến thức, kỹ năng lồng ghép giới trong các ngành chuyên môn...
Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Lê Thị Nguyệt đưa ra hạn chế trong hoạt động thẩm tra lồng ghép giới: “Việc thẩm tra lồng ghép giới đối với các dự án pháp lệnh và nghị quyết vẫn tập trung chủ yếu đối với những dự án thuộc lĩnh vực Ủy ban các vấn đề xã hội. Tuy một số dự án luật, bộ luật có báo cáo riêng về việc thực hiện lồng ghép giới của Ban soạn thảo, đã được thẩm tra lồng ghép giới và có văn bản sau khi thẩm tra lồng ghép giới, nhưng các nội dung này lại không được thể hiện, không được phân tích dưới góc độ giới trong các báo cáo của Ủy ban chủ trì thẩm tra”.
Thùy Trang