Đường dây nóng: 0983449277 - 0913303903 - 0912325336Thứ bảy, 06/07/2024 10:17 GMT+7

Nhọc nhằn “đổi chữ” ở Trà Khê

Biên phòng - Nơi ấy, con em của trên 400 hộ dân thuộc diện hộ nghèo, ngày ngày cần mẫn “tìm” cái chữ. Và ở đó, có những người giáo viên lặng lẽ hàng chục năm dâng tuổi xuân của mình nơi hoang vắng, bởi cái nghiệp cầm phấn đã gắn họ với học trò nghèo ở vùng cao.

q1ea_10a
Đường lên điểm trường thôn Sơn. Ảnh: Minh Ngọc

Gian nan đường tìm con chữ

Trà Khê (Tây Trà, Quảng Ngãi) nằm lọt thỏm trong vùng rừng núi giáp với tỉnh Quảng Nam. Đời sống kinh tế của người dân còn nhiều khó khăn, chủ yếu dựa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, trồng lúa nước, chăn nuôi và làm rẫy. Xã có 435 hộ với hơn 1.000 nhân khẩu, trong đó, hộ nghèo chiếm tới hơn 95%.

Trường Tiểu học Trà Khê với 5 điểm trường nằm tản mát ở khắp nơi trong xã nhằm thuận tiện cho học sinh nơi đây đến lớp trong vòng 1 tiếng đồng hồ. Nếu để các em từ trong làng ra điểm trường chính học, khi đường ô tô không có, thì chắc hẳn chẳng một em nào đến được trường hằng ngày.

Thầy Võ Phúc Huy, Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Trà Khê ngậm ngùi: “Trà Khê là xã khó khăn nhất tỉnh Quảng Ngãi, đường giao thông đi lại khó khăn nên việc học tập của con em đồng bào nơi đây rất gian nan. Đời sống giáo viên cũng gặp rất nhiều vất vả, nhưng với lòng yêu nghề và thương trẻ nên ai cũng cố gắng trụ lại. Để có được ngôi trường như hiện nay, các thầy, cô giáo đã phải cùng người dân cõng từng viên gạch, từng bao xi măng, từng tấm ván gỗ về xây trường. Những ngày đầu, học sinh đi học không nhiều, không đều như bây giờ, thầy, cô giáo phải thay nhau đến từng gia đình động viên các em. Mỗi năm gần đến lễ khai giảng, giáo viên trong trường lại tỏa đi vận động các em tới lớp. Có cô giáo sợ các em bỏ học, lúc đến vận động, nhắc nhở các em thì ở lại làng, rồi đưa các em đến trường luôn. Cả trường gần 300 học sinh, nhưng khoảng 100 em học ở điểm trường chính, còn lại các em học ở các điểm lẻ. Vì cái chữ cho đồng bào, chúng tôi đã phải cố gắng rất nhiều”.

Tôi theo thầy Võ Phúc Huy đến thôn Sơn, thuộc diện nghèo nhất xã. Chúng tôi vào trường, sau giây phút ngỡ ngàng vì lâu lắm mới thấy... người dưới xuôi lên đây, các giáo viên trong trường ùa ra, người thì đỡ ba lô, người vỗ vai, người xách nước cho chúng tôi rửa mặt thân mật như người nhà. Chúng tôi nhìn vào trong lớp học, trời mùa Đông, vùng núi cao mà có em áo mặc chưa đủ ấm, có em quần áo lấm lem bùn đất vì phải vượt cả một quãng đường xa để tới lớp trong mùa mưa này. Ngồi trong lớp học mà các em cứ co ro vì cái lạnh của vùng cao, thấy mà thương quá.

Thầy Huy thủ thỉ: “Học sinh của trường từ nhỏ đã phải băng rừng lội suối đi học, đã quen nên không biết mệt, nhưng vất vả lắm. Bất kể mưa nắng, từ nhà đến trường trung bình phải mất hơn 1 giờ đồng hồ lội suối băng rừng, nên các em phải dậy thật sớm. Thấy vậy, nhà trường linh động sắp xếp thời gian biểu hợp lý hơn. Được cái, học sinh ở đây ít khi bỏ học. Đấy cũng là niềm an ủi với những giáo viên đứng lớp nơi đây...”.

Có lên đến đây, có dạy “cái” chữ cho học sinh vùng cao mới thấy yêu thương và gắn bó với mảnh đất này. Theo quy định thì những giáo viên cắm bản sẽ được luân chuyển theo chế độ và thời gian công tác. Những thầy, cô giáo công tác ở đây từ 5 năm trở lên sẽ được chuyển vùng, chuyển về dưới xuôi với điều kiện tốt hơn nhiều, nhưng “cái đất, cái tình người ở đây cứ quyện lấy mình rồi. Đi thì nhớ lắm! Có thầy, cô giáo ban đầu định bỏ nghề rồi vì không chịu đựng nổi với những khó khăn này, nhưng về dưới xuôi mấy bữa lại thấy khăn gói lên, vì nhớ rừng, nhớ đất, nhớ người trên này quá. Người dân ở đây vốn chân chất thật thà. Sống với họ mới hiểu được cái tình người cao quý đến nhường nào!” - Một cô giáo đã đứng tuổi chia sẻ.

Tuổi xuân nơi “hoang vắng”

Giáo viên ở xã nghèo Trà Khê cũng vô vàn nhọc nhằn. Nhà công vụ là những phòng tạm, vách lồ ô, nếu tường xây gạch thì cũng đầy loang lổ, có thể sập bất cứ lúc nào. Điểm trường thôn Sơn nghèo nhất xã này có 3 thầy giáo và 2 cô giáo. Cả 5 giáo viên ở chung một căn phòng ọp ẹp rộng chưa tới 15m2. Chỗ nghỉ giữa thầy và cô được ngăn bởi tấm ri-đô bằng vải. “Ban đầu lên đây, giữa núi rừng heo hút, tôi buồn lắm! Có lần về dưới xuôi định không lên nữa, nhưng rồi lại thấy nhớ những đôi mắt đợi trông của học trò, thương người dân còn nhiều cực nhọc, tôi lại khăn gói lặn lội lên đây. Nhìn những gương mặt mong mỏi đợi trông của các em khi thấy mình trở lại mà thương trào nước mắt, các anh ạ!” - Thầy giáo Nguyễn Công Trí, quê miền biển nói mà đôi mắt rưng rưng.

Bữa cơm đạm bạc miền núi thấm đẫm hơi sương được dọn ra. Bếp lửa bên cạnh luôn đỏ rực để át đi cái lạnh của vùng cao. Cô giáo trẻ vừa xới cơm, vừa cười rất tươi kể, sau giờ lên lớp hầu hết các giáo viên đều ra suối bắt cá, hái rau trên rừng. Một tháng hai lần có tiếp tế từ dưới xuôi lên mới có chất tươi. Còn lại thì chỉ có gạo, cá khô, mắm muối. Cá biển tươi, nhưng mang được đến đây thì đã ươn mất rồi. Đợt vừa rồi mùa mưa lũ chia cắt, lúc hết gạo, cá, họ cùng ăn sắn, ăn khoai với người dân trong làng.

5jsb_10b
Một góc căn phòng sinh hoạt của các thầy, cô giáo ở thôn Sơn. Ảnh: Vân Anh

Thông tin liên lạc, một nhu cầu thực tế mà thời nay ai cũng cần, nhưng ở vùng núi này lại là chuyện hiếm hoi. Mỗi lần có ai đó xuống được dưới xuôi về, trong ba lô bao giờ cũng là lặc lè những báo, sách, tạp chí đủ loại. Anh em có được tờ báo đọc, nhịn ăn, nhịn uống đọc nát mới thôi và lại chờ báo “mới” của chuyến sau. Mỗi buổi tối đến, 2 cô giáo ngồi tán chuyện với nhau, nói về manh áo rách, nói về đồ ăn, thức uống trong mùa mưa này, nói về những chuyện riêng vốn rất thầm kín của phụ nữ. Còn 3 người đàn ông thì túm tụm với những câu chuyện về chủ đề trường lớp, hay mơ màng hơn là ao ước về một mái nhà nhỏ có chồng, có vợ và những đứa con quây quần bên mâm cơm mỗi tối; là đón đưa con cái đi học; là chiều cuối tuần được đi công viên... Và thể nào cũng cứ tới giữa chừng câu chuyện, thì lại có người nhớ nhà, nhớ  người yêu, nhớ vợ, nhớ con, nhớ ruộng đồng bờ bãi dưới miền xuôi. Rồi cứ thế, từng người một lần lượt lặng lẽ đứng dậy, ra cái chỗ cao ở cuối dãy hành lang nhà mà nhìn mông lung về phía Đông cho đỡ nhớ.

Đêm trên vùng sơn cước, cái lạnh và cái buồn cứ bủa vây trong cơn mưa rừng rả rích. Một thầy giáo trẻ cất lên giai điệu bô-le-rô buồn buồn từ chiếc ghi-ta thùng đã tróc hết lớp véc-ni bên ngoài. Anh hát những bản tình ca về quê hương, về cùng đất anh đã lớn lên, về cả miền núi rừng nơi anh đang sống và công tác. Tôi hiểu, những con người nơi đây phải gắng gượng lắm để vượt qua được hết nỗi buồn, sự thiếu thốn và cả những mong ước rất giản dị của mình. Bởi, nếu không có được sự dũng cảm, có lẽ chẳng còn ai có thể trụ nổi được đến tận bây giờ. Tất cả họ và tất cả những người đang dâng hiến tuổi xuân của mình nơi “hoang vắng” trên dải đất hình “chữ S” này đều xứng đáng được vinh danh.

Chúng tôi xuống núi, cái buồn gieo lãng đãng như sương núi mọng li ti trên mắt, trên môi từng người. Cả trường ra tiễn chúng tôi, bịn rịn và ầng ậng nước mắt, bởi biết đến bao giờ lại được gặp người dưới xuôi...

Minh Ngọc - Vân Anh

Bình luận

ZALO