Biên phòng - Bảo tàng Biên phòng hiện có hơn 12 ngàn tư liệu, hiện vật. Trong số đó, có những hiện vật quý, hầu hết là hiện vật gốc đặc biệt có giá trị mà Bảo tàng Biên phòng có được trong quá trình sưu tầm trên khắp đất nước. Những hiện vật đó đã phản ánh những giai đoạn lịch sử của lực lượng Công an nhân dân vũ trang (nay là BĐBP), làm nên bộ sưu tập đa dạng, phong phú của Bảo tàng Biên phòng suốt nửa thế kỷ qua.
Qua một số hiện vật của Bảo tàng Biên phòng, người xem đã phần nào hình dung ra hình ảnh người chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang (CANDVT), nay là BĐBP qua từng giai đoạn lịch sử như: Thời kỳ tiễu phỉ; thời kỳ chống gián điệp, biệt kích; thời kỳ bảo vệ giới tuyến quân sự tạm thời; thời kỳ chống chiến tranh phá hoại trên các tuyến biên giới cùng với những trận đánh đã đi vào lịch sử dân tộc. Hay thành tựu về xây dựng đường biên giới ổn định, phát triển bền vững; xây dựng cơ sở chính trị, giúp các địa phương phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số; đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, tham gia cứu hộ, cứu nạn...
Thượng tá Nguyễn Trọng Phương, Giám đốc Bảo tàng Biên phòng cho biết: “Để có được những hiện vật quý, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị đã phải lặn lội xuống các địa bàn, không quản ngại khó khăn để tìm hiểu, sưu tầm, lưu giữ với mong muốn đem đến cho người xem cả nước bức tranh hoàn chỉnh nhất về lịch sử BĐBP qua các thời kỳ”.
Chiếc đài Li-ben của Bác Hồ
Sau 9 năm kháng chiến kết thúc thắng lợi, Bác Hồ và Trung ương Đảng, Chính phủ chuyển về Thủ đô Hà Nội. Mùa xuân năm 1958, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 600 được giao nhiệm vụ vét bùn ao để làm ao cá cho Bác và đắp đường chạy xung quanh ao trong vườn của Bác ở Phủ Chủ tịch. Qua ba ngày đào đắp, hôm cuối cùng trước khi hoàn thành, Bác ra tận nơi thăm các chiến sĩ. Bác bảo các chiến sĩ trồng hoa dâm bụt quanh bờ ao cho đẹp và đặt tên cho con đường mới đắp là “đường 600” dựa trên số 600 công mà các chiến sĩ đã làm. Cuối cùng, Bác tặng chiếc đài bán dẫn Li-ben cho đơn vị để làm kỷ niệm cùng một phần nhuận bút ít ỏi của Bác để Trung đoàn xây dựng thư viện. Đó là chiếc đài điện vỏ giả da, mặt nhựa, có tay xách do hãng Li-ben sản xuất. Tình cảm, sự quan tâm đặc biệt của Hồ Chủ tịch mãi là niềm tự hào, nguồn động viên lớn lao đối với cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn.
Lá cờ Hiền Lương lịch sử
Trong kháng chiến chống Mỹ, vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia cắt đất nước thành 2 miền Nam-Bắc. Năm 1957, cột cờ Hiền Lương được xây dựng bên bờ Bắc của sông Bến Hải. Cột cờ cao 36m, trên treo lá cờ đỏ sao vàng có chiều dài 12m, rộng 8m.
Hằng ngày, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay giữa bầu trời Vĩnh Linh, từ bờ Nam trên 10km vẫn nhìn thấy cờ. Nhưng lá cờ cũng như mũi dao luôn đâm thẳng vào con mắt kẻ thù phía bờ Nam. Mỹ - Ngụy muốn hủy diệt lá cờ, nên chúng đã huy động các loại máy bay ném xuống Vĩnh Linh hàng ngàn tấn bom đạn các loại trong hơn 1.000 ngày đêm. Vậy mà quân và dân Vĩnh Linh, đặc biệt là những cán bộ, chiến sĩ CANDVT Trạm Hiền Lương đã bảo vệ lá cờ với lời thề quyết tử: “Ngày nào tim còn đập thì lá cờ còn bay”. Đã có nhiều tấm gương hi sinh để bầu trời Vĩnh Linh không một phút giây vắng bóng lá cờ Tổ quốc. Trong 10 năm liền (1957- 1967), các chiến sĩ CANDVT Hiền Lương đã bảo vệ cột cờ an toàn, giữ cho lá cờ Tổ quốc luôn tung bay trên bầu trời bờ Bắc.
Lưỡi cày của Anh hùng Trần Văn Thọ
Anh hùng liệt sĩ Trần Văn Thọ là một trong 5 chiến sĩ đầu tiên của lực lượng BĐBP được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, người đã hy sinh cả tuổi thanh xuân để đem lại cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân các dân tộc nơi ngã ba biên giới Việt Nam, Lào, Trung Quốc. Trong số những hiện vật liên quan đến Anh hùng liệt sĩ Trần Văn Thọ, có chiếc lưỡi cày, áo trấn thủ, bát tre, que tính công điểm... mà Bảo tàng Biên phòng đang lưu giữ đã phần nào cho thấy công việc cũng như tấm lòng của anh Trần Văn Thọ với đồng bào các dân tộc nơi biên giới.
Tháng 3-1959, Trần Văn Thọ là chiến sĩ Đồn Biên phòng Leng Su Sìn hoạt động cơ sở ở xã Sín Thầu, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Nhân dân ở đây còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trần Văn Thọ đã trực tiếp hướng dẫn cán bộ cốt cán, lập các tổ mẫu làm ăn theo từng bản, dùng cày, bừa làm ruộng, cấy lúa nước, làm cỏ bón phân... Anh Trần Văn Thọ đã bỏ tiền túi tìm mua một số lưỡi cày giúp hợp tác xã, hướng dẫn bà con việc cày bừa, gieo mạ, làm đồng áng với kỹ thuật mới. Anh còn giúp đỡ cán bộ địa phương biết lập kế hoạch làm ăn, thời vụ cây trồng, kỹ thuật chăm bón lúa và hoa màu, cách quản lý, tổ chức, tính công điểm, phân công trách nhiệm rõ ràng...
Do tích cực tuyên truyền, hướng dẫn bà con chu đáo nên vụ mùa năm 1959 thu hoạch rất cao. Hiện Bảo tàng Biên phòng đang lưu giữ lưỡi cày do anh Trần Văn Thọ mua về giúp dân bản Thà Lao San cày ruộng, định canh định cư, được dân bản gọi là “Cày cán bộ Thọ”. Loại lưỡi cày này dùng rất thích hợp với vùng cao dân tộc Hà Nhì từ năm 1959 đến nay.
Công an hiệu của Anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh
Liệt sĩ Lê Đình Chinh ngã xuống khi mới tròn 18 tuổi. Lúc đó, anh là Thượng sĩ, Tiểu đội trưởng, Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 12, Bộ Tư lệnh CANDVT (nay là Bộ Tư lệnh BĐBP). Anh là người chiến sĩ đầu tiên của các lực lượng vũ trang hy sinh trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc.
Ngày 25-8-1978, hàng chục tên côn đồ từ bên kia biên giới đã vượt biên sang đất ta hành hung cán bộ, phụ nữ và nhân dân địa phương. Lê Đình Chinh đã mưu trí tấn công địch, bằng tay không đánh gục hàng chục tên côn đồ, góp phần cùng đơn vị và nhân dân biên giới giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực ải Bắc. Công an hiệu đã được Lê Đình Chinh mang trên người trong lúc chiến đấu với bọn côn đồ Trung Quốc tại cửa khẩu Hữu Nghị Quan (Việt Nam). Trong cuộc chiến này, Lê Đình Chinh đã anh dũng hy sinh, nêu gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ngày 20-12-1979, Thượng sĩ Lê Đình Chinh được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Mai Thanh