Với Chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội trong quá khứ, tỉnh Điện Biên có lợi thế trong việc thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan, đặc biệt là khách nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử, văn hóa.
70 năm trôi qua, nhiều người vẫn chưa “cắt nghĩa” được, vì sao có tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ? Sau thất bại ở Nà Sản (Sơn La), người Pháp nhanh chóng nhảy dù đổ xuống lòng chảo Điện Biên Phủ với nhiều tiểu đoàn cơ động thiện chiến, kèm theo không quân “bịt” các ngả đường hành quân của Việt Minh. Bác Hồ đã ra lệnh cho Tổng Tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “... Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh".
Chiều 17/4, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Lễ khởi công tôn tạo KhuđềkhángHimLam và lễ đặt tên các đường phố thuộc thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, việc tổ chức, sử dụng pháo binh được nâng lên thành nghệ thuật, đáp ứng yêu cầu của một chiến dịch mang ý nghĩa chiến lược.
Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 do nhiều nhân tố tạo thành, trong đó nhân tố trước tiên, xuyên suốt và có ý nghĩa quyết định, đó là sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giờ đây sau 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, “cánh cửa thép” HimLam đã vươn lên trở thành điểm sáng về phát triển kinh tế-xã hội của thành phố Điện Biên Phủ.
Trung tướng Trần Linh, sinh năm 1929, nguyên quán xã Cự Khối, huyện Gia Lâm, nay là phường Cự Khối, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Thân phụ ông, cụ Trần Như Ngôi là lớp nhà giáo được đào tạo dạy chữ quốc ngữ đầu tiên thời thuộc Pháp. Năm 1930, ông giáo được điều về dạy ở trường tiểu học làng Quê Phương, nay là xã Bình Dân, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Thân mẫu ông là người phụ nữ nông thôn vùng Kinh Bắc, thuộc tầng lớp dân nghèo, buôn bán nhỏ, hết lòng yêu chồng, thương con. Theo chồng về dạy học tại làng quê Kim Thành, bà giáo ngày ngày tất tả, ngược xuôi buôn bán, để phụ giúp chồng lo việc mưu sinh cho cả nhà, tạo điều kiện cho các con ăn học.
Trong không khí hân hoan chào mừng kỷ niệm 69 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2023), thời gian qua, thực hiện chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Chỉ huy BĐBP Điện Biên, các tổ chức Đoàn của BĐBP Điện Biên đã tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục lịch sử, truyền thống cho bộ đội dưới hình thức phong phú, đa dạng. Thông qua các hoạt động đó đã góp phần khơi dậy lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước trong mỗi đoàn viên, thanh niên.
50 năm cuộc đời binh nghiệp (trong đó có 15 năm công tác trong lực lượng BĐBP), Trung tướng Trần Linh, nguyên Phó Tư lệnh về Chính trị BĐBP đã để lại nhiều dấu ấn khó phai, đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng BĐBP...
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã trở thành một trong những chiến công chói lọi, như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỷ XX trong lịch sử dân tộc; là kết quả sự hội tụ của nhiều nhân tố, trong đó có bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.
Hơn sáu thập kỷ đã trôi qua, Chiến thắng Điện Biên Phủ mãi là biểu tượng sáng ngời của dân tộc Việt Nam quật cường, bất khuất, sáng tạo là niềm tin của các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Và tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng Điện Biên Phủ luôn gắn liền với vai trò đặc biệt quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người cha già kính yêu của dân tộc.
Thắng lợi của chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những chiến công vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, góp phần quyết định đến việc Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Kết thúc gần một thế kỷ đấu tranh kiên cường của dân tộc ta chống lại sự xâm lược, thống trị của thực dân Pháp, làm cơ sở vững chắc cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là trận quyết chiến chiến lược đầu tiên của Quân đội ta kể từ ngày thành lập (22-12-1944), kết thúc 9 năm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh bại “kế hoạch Nava” của thực dân Pháp, tạo điều kiện đi đến quyết định ký Hiệp định Genève (21-7-1954).
Thực hiện lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 của Hồ Chủ tịch và đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần "Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh" quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp.
Ngay khi Võ Nguyên Giáp chuẩn bị bao vây Điện Biên Phủ, ông đã duy trì sức ép ở nơi khác với người Pháp. Từ ngày 10-12-1953, ông tiếp tục chỉ huy tấn công Lai Châu. Trong vòng 10 ngày đêm chiến đấu liên tục, quân đội của ông đã diệt 24 đại đội lính Pháp. Tại Lào, với sự góp sức của bộ đội Pa-thét Lào, các đơn vị của Võ Nguyên Giáp tiếp tục giao chiến với quân Pháp. Trong những ngày cuối tháng 1, đầu tháng 2, quân đội của Tướng Giáp lại mở cuộc tiến công Đắk Tô, toàn bộ tỉnh Kon Tum thất thủ. Tướng Giáp nhận thấy, Pháp phải rút bớt quân ở đồng bằng sông Hồng để tăng cường cho Trung Lào rồi chuyển xuống ứng cứu cho Tây Nguyên. "Cuộc tiến công của chúng ta ở Tây Nguyên tiếp tục đến tháng 6-1954 và giành được chiến thắng vang dội ở An Khê, đánh tan Trung đoàn cơ động 100 của Pháp rút từ mặt trận Triều Tiên về và tiếp đó giải phóng An Khê". Ngoài tổn thất về quân số, Pháp còn bị phá hủy và tịch thu nhiều xe, vũ khí, đạn dược.