Đường dây nóng: 0983449277 - 0913303903 - 0912325336Thứ hai, 01/07/2024 11:36 GMT+7

Tình quê hương quyện nghĩa biên cương

Biên phòng - Nếu dùng một câu để nhận xét về Thiếu tướng, nhà thơ Lê Đình Huy, nguyên Cục trưởng Cục Trinh sát BĐBP, có lẽ không gì xác đáng hơn khi nói ông là một thi sĩ áo lính đôn hậu với một phong cách thơ dung dị, tràn ngập tình yêu quê hương và trách nhiệm với biên cương Tổ quốc. Ông nhập ngũ từ một binh nhì, lần lượt trải qua các cấp hàm để rồi vinh dự được phong hàm Thiếu tướng nên không cần nhiều lời cũng đủ hiểu người lính từ miền quê Hà Tĩnh ấy đã phải phấn đấu miệt mài đến thế nào. Khi cầm trên tay tập thơ thứ hai của ông có cái tên ấm áp là “Biên cương tình mẹ”, tôi hoàn toàn đắm mình trong dòng thi cảm cuộn chảy của một người lính sau khi hoàn thành “nợ non sông”, trở về với đời thường để trải lòng trên trang giấy.

Tập thơ "Biên cương tình mẹ" của Thiếu tướng, nhà thơ Lê Đình Huy. Ảnh: Tuệ Lâm

Ông tâm sự: “Tôi sinh ra nơi quê hương gió Lào, nắng cát xã Thạch Mỹ, bên dòng sông Đò Điệm thân thương, đã theo tôi cả chặng đường 40 năm quân ngũ. Lớn lên từ lời ru và bàn tay tảo tần của mẹ, như bao bà mẹ quê mình nhặt từng hạt gạo, gom từng quả ớt, bó rau nuôi con khôn lớn thành người. Bây giờ công tác xa quê, đi trên những con đường rộng lớn, sống chốn đô thành, tôi vẫn đau đáu hai tiếng “quê hương” - nơi đã cho tôi tất cả. Tôi tự dặn lòng, phải sống tốt, sống như truyền thống của mảnh đất và con người Hà Tĩnh vốn có”. Và bằng thơ ca, người lính ấy đã kể về mình giản dị thế này thôi: “Con ra đi đầu trần, chân dép lốp/ Mẹ cho tình người, cha cho chí thép/ Rạo rực lên đường đánh Mỹ/ Hơn 40 năm vòng quanh đất nước/ Nay trở về sâu nặng với quê hương” (Đêm không ngủ).

170 bài thơ ở nhiều đề tài, thể loại khác nhau, song, điểm chung là tình cảm chân phương, giản dị như con người ông. Thiếu tướng Lê Đình Huy đã tinh tế chia tập thơ của mình thành 3 phần gồm “Ký ức biên cương”, “Mẹ và quê hương” và “Những tâm hồn đồng điệu” để bạn đọc có thể theo dõi và cảm nhận được rõ nét từng góc tâm hồn của tác giả. Như Giáo sư Hà Minh Đức đã viết: “Thơ ca chân chính luôn là tiếng nói yêu thương, là lời ca chiến đấu, giàu ước mơ và khát vọng”. Có thể nói, những sáng tác của Thiếu tướng Lê Đình Huy đều hướng tới những giá trị nhân bản của cuộc sống, của con người, gần gũi với quê hương, với biên cương cùng tình cảm gắn bó thiêng liêng với gia đình, đồng đội, bạn bè.

Cái nghĩa, cái tình của ông đối với dân bản không thể nói hết được nhưng những việc ông giúp đỡ nhân dân tại các bản làng nơi ông từng công tác thì vẫn được bà con khắc ghi, truyền lại cho các thế hệ con cháu... Nghĩa tình biên cương là đây: “Từ đồn ra huyện, đường xa lắm/ Nhớ mấy lần đi, mấy nắm xôi/ Năm khó, mất mùa, ngô hấp sắn/ Mẹ trộn tấm lòng lẫn với cơm” - tứ thơ “mẹ trộn tấm lòng lẫn với cơm” gợi lên một cảm xúc rưng rưng về tình quân dân cá nước. Để khi người lính biên cương sau bao năng bôn ba quay lại chiến trường xưa cảm khái “Trở lại Quế Phong uống rượu cần/ Bản làng đồng đội với người thân/ Ba sừng Chạm rót càng vui vẻ/ Một gáo em thêm chẳng ngại ngần/ Lòng dạ mơ màng vui sắc núi/ Nỗi niềm lắng đọng đẹp tình dân/ Lăm vông nhảy múa say men nhạc/ Ấm áp bên nhau giữa đại ngàn” (Trở lại Quế Phong).

Ông bật thốt và có sự so sánh thật hay và đúng: “Tình người biên giới trắng trong/ Như hoa ban núi, như dòng sông quê” (Hoài niệm). Hay “Đường xa dốc thẳm chạm ngang cằm/ Trấn ải biên phòng suốt tháng năm/ Quyết tử bày binh trừ thủ ác/ Bền gan bố trận diệt mưu ngầm/ Buôn làng giúp đỡ chăm rèn đức/ Tổ đội chung lòng gắng dưỡng tâm/ Đánh địch âm thầm nơi “miệng hổ”/ Sá chi hiểm họa với bom gầm...” (Tâm tình đồng đội) thể hiện ý chí quyết tâm của người lãnh vác sứ mệnh bảo vệ cương thổ quốc gia. Thậm chí, ta cảm nhận được sức trẻ, ý chí của tuổi trẻ chốn biên thùy: “Lên từng đỉnh núi vượt trùng mây/ Ngạo nghễ thiên nhiên lớp lớp đầy/ Biển rộng bồng bềnh sương phủ kín/ Đèo dài uốn lượn tuyết trùm vây/ Phi tàu sóng cả nơi rèn luyện/ Cưỡi ngựa rừng sâu chốn dạn dày/ Tuổi trẻ thi đua giành quyết thắng/ Quân kỳ phấp phới đẹp tràn bay” (Nơi ấy biên cương).

Hay sự giản dị của người lính cũng thật “thơ”: “Gia tài chiến sĩ chiếc ba lô/ Đựng cất tư trang đủ thứ đồ/ Cóc lớn dành riêng nhiều kỷ vật/ Ngăn dài giữ trọn những phong thơ/ Áo quần hai bộ: “nghiêm” và “nghỉ”/ Dày dép vài đôi: “đứng” với “chờ”/ Huấn luyện sẵn sàng khi giặc đến/ Giảng đường khát vọng vẫn hằng mơ” (Gia tài người lính), cặp đối của Đường luật: “nghiêm” và “nghỉ” - “đứng” với “chờ” rất đậm chất lính. Và nhà thơ Lê Đình Huy đã viết đầy tự hào về nghiệp lính trinh sát của mình, về những thế hệ tiền bối khả kính: “Bám trụ ngoan cường ở ngoại biên/ Ghi công thầm lặng khắp vùng miền/ Nghệ An nhớ mãi ông Trần Trí/ Hà Tĩnh ơn nhiều bác Võ Tuyên/ Đánh địch cao mưu lòng dũng cảm/ Bắt thù quyết chí dạ trung kiên/ Lừng danh chiến tích ta cùng bạn/ Tiếp bước ông cha giữ chủ quyền (Tự hào trinh sát ngoại biên).

Trong phần II, Thiếu tướng, nhà thơ Lê Đình Huy viết những lời thơ đau đáu: “Bay xa năm tháng đó đây/ Phong trần đời lính tóc mây trở về/ Bốc lên nắm cát mân mê/ Thoảng trong mùi đất hương quê mặn nồng” (Hương quê) hay “Dẫu cho năm tháng đầy vơi/ Tình làng nghĩa xóm ... một thời áo tơi/ Quê hương vẳng tiếng à ơi/ Nuôi ta khôn lớn biển khơi vẫy vùng” (Ký ức áo tơi). Miền quê gian khó ấy luôn trong tâm trí ông, là nỗi nhớ suốt một đời: “Tôi về gọi mãi với dòng sông/ Kỷ niệm ngày xưa tuổi chớm hồng/ Rủ bạn trưa hè đi đuổi cáy/ Chờ em xế buổi chạy trêu còng/ Đò ngang độ ấy đâu còn nữa/ Bến đợi bây giờ cũng trống không/ Thả mắt xa vời nghe tiếng vọng/ Tình quê rộn rã thắm duyên nồng” (Sông quê nỗi nhớ).

Thiếu tướng Lê Đình Huy luôn tưởng nhớ tổ tiên, dòng họ để soi rọi cho con đường phấn đấu của mình: “Nhân sinh lẽ sống tại tâm hồn/ Biểu tượng từ đường cội tổ tông/ Cây trổ trăm cành nhờ có gốc/ Nước lan vạn nhánh bởi do nguồn/ Thuần phong họ tộc luôn gìn giữ/ Mỹ tục ông cha phải bảo tồn/ Phú quý công danh đều cõi tạm/ Muôn đời đạo lý mãi trường tôn” (Nguồn cội). Trước di ảnh cha, ông viết đầy thành kính “Ngắm ảnh lòng con... ngẫm mọi điều/ Đoạn trường khắc khoải, cảnh cô liêu/ Điện Biên nghiệp lính thời trai trẻ/ Đồng Hới nghề y buổi xế chiều/ Tại ngũ đánh thù nơi đạn nổ/ Chuyển ngành chữa bệnh chốn bom kêu/ Xót người thân phụ đời chinh chiến/ Tao nhã thành tâm... chẳng mỹ miều” (Ngẫm đời cha).

Đặc biệt, ông dành rất nhiều cảm xúc để viết về mẹ. Đó là người mẹ trọn một đời thấp thỏm: “Chồng, con đánh giặc gian nan/ Đêm đêm miệng khấn cầu an... chiến trường/ Nhìn từng hạt lúa mà thương/ Mưa sa nắng dội đoạn trường nuôi con” (Ngày 8 tháng 3 nhớ mẹ). Đó là người mẹ luôn theo ông tới vạn nẻo biên cương: “Bao năm biên giới dặm trường/ Mẹ theo con suốt chặng đường tuần tra” (Bến đò và mẹ). Mà ngay cả khi người đã khất bóng rồi ông vẫn luôn luyến lưu: “Mắt con bới vụn sân vườn/ Lục tìm dấu tích vệt đường mẹ đi/ Lá vàng nghiêng rụng gốc si/ Chim kêu vọng tiếng thầm thì chiều thu” (Nỗi niềm vắng mẹ).

Một yếu tố then chốt là ngữ âm và nhịp điệu thơ tuân thủ rất nghiêm niêm luật thơ Đường, lục bát hay tứ tuyệt đường thiên. Điều đó khiến thơ của ông có được sự cảm thụ dễ dàng của lớp độc giả trung và cao tuổi, yêu thơ truyền thống. Đặc biệt, ông có thế mạnh với lục bát, có sự thể nghiệm ở cách nhấn nhá, xuống dòng thơ hay luyến láy vần điệu ở hầu hết các bài thơ đều nhằm mục đích tạo nên tứ thơ, hình tượng thơ mà ông hướng đến. Nhất là trong các bài thơ viết về quê hương hay về biên giới đều hài hòa, không gồng mình khoe chữ hoặc rối rắm thủ pháp. Điều này cũng được thấy rõ ở phần III, phần mà ông viết để sẻ chia vui buồn, quan điểm sống với bạn bè, đồng đội và cả những phút ngẫu hứng xướng họa với bạn thơ của sân thơ Đường luật.

Chậm rãi đọc và cảm nhận tình thơ, hồn thơ của người lính - nhà thơ Lê Đình Huy qua “Biên cương tình mẹ”, điều đọng lại trong tôi là nhân cách, tấm lòng của một con người đã sống trọn vẹn nghĩa tình. Và qua thơ, tình quê hương đã quyện nghĩa biên cương, làm nên một giọng điệu thơ ân tình và đôn hậu.

Phạm Vân Anh

Bình luận

ZALO